Lần đầu tiên link vào dafabet tự hệ gen ty thể gà Leghorn trắng được công bố vào năm 1990 (Desjardins và Morais, 1990). Bắt đầu từ thời gian này, việc nghiên cứu ADN ty thể gà đã và đang được phát triển tương đối rộng rãi, nhiều link vào dafabet tự nucleotide mtADN của các giống gà khác nhau trên thế giới được đăng ký mã số trên GenBank. link vào dafabet tự nucleotide vùng D-loop được sử dụng như một công cụ trong phân tích mối quan hệ tiến hoá và đánh giá biến đổi di truyền trong và giữa các loài (Harpendinget al, 1998). Phân tích 443 bp vùng siêu biến D-loop của 834 cá thể gà có link vào dafabet gốc ở các nước châu Âu, Á và 66 cá thể gà rừng đỏ hoang dã từ khu vực Đông Nam Á và Trung Quốc. Liu và cộng sự (2006) đã đánh giá đa dạng di truyền các giống gà, kết quả cho thấy rằng, các giống gà nghiên cứu phân thành chín nhánh thể hiện ở Hình 1.2 (từ A đến I), trong đó có bảy nhánh chứa cả gà rừng đỏ và gà nhà. Các gà thuộc nhánh A, B và E được phân bố ở khắp nơi tại châu Âu và châu Á, trong khi các nhánh khác chỉ có ở các cá thể gà thuộc khu vực Nam và Đông Nam Á. Gà Nhật Bản và Đông Nam Trung Quốc phân bố tập trung ở nhánh C, trong khi nhánh F và G chỉ tìm thấy ở các cá thể gà thuộc Vân Nam, Trung Quốc. Sự phân bố địa lý các gà thuộc nhánh D có liên quan chặt chẽ đến sự phân bố của trò chơi chọi gà. Còn các nhánh khác có thể có link vào dafabet gốc từ các khu vực khác nhau, chẳng hạn như Vân Nam, Nam và Tây Nam Trung Quốc hoặc các khu vực xung quanh (ví dụ: Việt Nam, Myanmar và Thái Lan) và tiểu lục địa Ấn Độ. Ngoài các nghiên cứu tiêu biểu trên còn rất nhiều nghiên cứu đã sử dụng trình tự gen ty thể để nghiên cứu sự phát sinh loài, sự thuần hóa, link vào dafabet gốc, sự di cư và sự phân bố trên các nhánh khác nhau của gà nhà (Kanginakudruet al, 2008; Marle-Koster và Casey, 2001; Mwacharoet al, 2011; Siweket al, 2013; Mariaet al, 2017; Hasanet al, 2016; Guoet al, 2017; Zhanget al, 2017; Abdulhakeemet al, 2017; Jiaet al, 2018; Piyanatet al, 2018).

Các thông tin, link vào dafabet tự vùng D-loop sử dụng để phân loại các giống gà trên thế giới và ở Việt Nam được thể hiện ở Bảng 1.1.

Bảng 1.1. Mức độ đa dạng và mối quan hệ di truyền các giống gà dựa trên link vào dafabet tự nucleotide D-loop ty thể

Giống/mẫu

Kích thước (bp)

Phân nhánh

Mối quan hệ phát sinh của các giống gà

link vào dafabet

Chim, gà rừng và 9 giống gà nhà

400

 

Chỉ có một link vào dafabet gốc duy nhất từG. g. gallus

Fumihitoet al, 1996

5 giống gà bản địa Trung Quốc và gà Leghorn trắng

539

 

4/5 giống có mối quan hệ gần gũi với gà rừng đỏ Thái Lan

Niu Det al, 2002

Gà chọi Shamo Nhật Bản (11 chủng, 42 mẫu)

1100

2 nhánh

Hai dòng mẹ, bắt link vào dafabet từ Đông Nam Á, Trung Quốc

Komiyamaet al, 2003

Gà Naganakidori Nhật Bản (83 cá thể)

 

1 nhánh

link vào dafabet gốc từ gà chọi Shamo ở các khu vực xung quanh miền Nam Trung Quốc hoặc Đông Dương

Komiyama Tet al, 2004

Các gà châu Á (834 cá thể), gà rừng đỏ (66 cá thể)

443

9 nhánh từ A đến I

Có nhiều dòng mẹ, bắt link vào dafabet từ Vân Nam, Việt Nam, Miến Điện, Trung Quốc, rải rác khắp châu Á

Liuet al, 2006

20 giống gà Nhật Bản, gà Leghorn trắng, gà Rhode Isl và gà bản địa Indonesia

1320

7 nhánh từ A đến G

Sự thuần hóa của gà bắt link vào dafabet từ vùng Đông Nam Á và Nam Á

Okaet al, 2007

Gà bản địa Ấn Độ (76 mẫu: 56 gà rừng đỏ, 16 gà nhà, 4 gà rừng xám)

650

19 haplotypes

Bắt link vào dafabet từ các địa phương khác nhau của châu Á

Kanginakudruet al, 2008

Gà Zimbawean (14 quần thể, 283 mẫu)

455

34 haplotypes nhóm thành 03 nhánh

Có link vào dafabet gốc từ Đông Nam Á, Ấn Độ, Nam Trung Quốc

Muchadeiyet al, 2008)

Gà Tây Nam Nigeria (98 mẫu)

397

17 haplotypes phân bố trên một nhánh (nhánh 4)

Có thể có nhiều link vào dafabet mẹ

Adebamboet al, 2010

Gà Nam Phi (89 mẫu)

460

13 haplotypes phân bố trên 5 nhánh, nhưng tập trung ở 3 nhánh chính A, D, E

C Có thể có link vào dafabet gốc từ Đông Nam Á, Trung Quốc, Ấn Độ

Mtileniet al, 2011

512 mẫu gà nhà thuộc bốn nước châu Phi (Kenya, Ethiopia, Sudan, Uganda)

397

41 haplotypes, thuộc 5 nhánh A-E

Nhánh D có link vào dafabet gốc từ Ấn độ, nhánh A có link vào dafabet gốc từ Đông Nam hoặc Đông Á. Nhánh E vẫn chưa rõ ràng hiện chỉ được quan sát thấy bên ngoài lục địa châu Phi, ở tỉnh Vân Nam, Trung Quốc

Mwacharoet al, 2011

Gà bản địa Bangladeshi (18 mẫu)

1232

Phân bố trên 3 nhánh (3, 4, 5) nhưng tập trung ở nhánh 4

Gà của Bangladesh, liên quan chặt chẽ vớiG. g. murghicó link vào dafabet gốc Ấn Độ, liên quan đếnG. g. bankiva, G. g.gallus

Mohammedet al, 2012

2044 mẫu gà nhà và 51 mẫu gà rừng đỏ từ Trung Quốc, Ấn Độ và Đông Nam Á

 

11 nhánh bao gồm A-I và W, Z

ự phứNc Có link vào dafabet gốc phức tạp, vì các giống phát sinh từ chim rừng đỏ đã trộn lẫn với gà nhà bản địa. Các giống có thể bắt link vào dafabet từ Nam Á, Tây Nam Trung Quốc và Đông Nam Á

Miaoet al, 2013

Gà chân xanh thuộc Ba Lan cũ (31 mẫu)

397

3 haplotypes phân bố trên 2 nhánh (B, E)

Có thể có link vào dafabet gốc từ Trung Quốc, Đông Nam Á hoặc Ấn Độ

Siweket al, 2013

Gà bản địa Lào

546

5 nhánh (A, B, D, F và I)

Có nhiềuCóNhiều dòng mẹ, nhưng có ít nhất hai dòng mẹ, một bắt link vào dafabet từ

Trung Quốc và một từ lục địa Đông Nam Á.

Kawabeet al, 2014)

16 giống gà bản địa (Ý, Tây Ban Nha, Sebia, Albania và cộng hòa Mailta)

506

Phân bố trên 3 nhánh A, B, E, nhưng tập trung ở nhánh E

Có thể có link vào dafabet gốc chủ yếu từ Ấn Độ

 

Ceccobelliet al, 2015

3 quần thể gà tại Chad, Trung Phi

387

 

Có link vào dafabet gốc từ Ấn Độ

Hassaballahet al, 2015

03 quần thể gà bản địa từ Odisha, Ấn Độ

407

164 haplotypes

Ba quần thể có link vào dafabet gốc gần với các giống Trung Quốc, Sri Lanka, Indonesia và Nhật Bản

Sahuet al, 2016

30 mẫu gà Daweishan Mini Trung Quốc

1231-1232

Phân bố trên 4 nhánh (A, B, D, E)

Có nhiều dòng mẹ, nhưngG. g. spadiceusđóng góp nhiều hơn link vào dafabeto sự phát triển của

gà Daweishan Mini

Jiaet al, 2015

Gà Crowing Indonesia

682

Phân bố trên ba nhánh nhưng tập trung ở nhánh D

Có link vào dafabet gốc từ Trung Quốc, Ấn Độ, Đông Nam Á, Nhật Bản và châu Âu. Gà thuần hóa có thể tập trung ở Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia và các nước Đông Nam Á khác

Mariaet al, 2017

Gà Thổ Nhỉ Kỳ (2 giống), gà Iran (7 giống): 222 mẫu

465

19 haplotypes phân bố trên 2 nhánh (A và E)

Có mối liên hệ cao với gà rừng đỏ, có thể bắt link vào dafabet từ tiểu lục địa Ấn Độ

Hasanet al, 2016

Bốn quần thể gà Nigerian và 4 dòng gà thương mại hướng trứng (171 mẫu)

397

31 haplotypes, chủ yếu tập trung ở nhánh D

Bắt link vào dafabet từ Ấn Độ

Abdulhakeemet al, 2017

4 giống gà xương đen Trung Quốc

585

28 haplotypes phân bố trên 4 nhánh A, B, C và E

Có ít nhất 2 dòng mẹ, một bắt link vào dafabet từ Vân Nam, Trung Quốc và một từ Đông Nam Á hoặc khu vực lân cận

Guoet al, 2017

Gà Tây Tạng (522 mẫu)

500

Phân bố trên 7 nhánh (A-G)

Có nhiều link vào dafabet gốc, có thể bắt link vào dafabet từ các giống gà thuộc Vân Nam, Tứ Xuyên, Tân Cương và các giống gà phục vụ mục đích giải trí như gà Chọi

Zhanget al, 2017

Gà Pavlov – Nga (37 mẫu)

1321-1322

11 haplotypes phân bố trên 2 nhánh

Có xu hướng phân mảnh di truyền đối với giống gà Pavlov

Deminet al, 2017

5 giống gà bản địa tỉnh Giang Tô Trung Quốc (149 mẫu)

1321-1322

19 haplotypes phân bố trên 5 nhánh (A, B, C, D, E), tập trung tại nhánh A và B

Có thể bắt link vào dafabet từ nhiều dòng mẹ

Jiaet al, 2018

Gà bản địa Thái Lan (220 mẫu)

1232

23 haplotype phân bố trên 6 nhánh (A-E và H)

Có mối liên quan chặt chẽ vớired junglefowl, đặc biệt làG. g. gallusG. g. spadiceus

Piyanatet al, 2018

9 giống gà bản địa Việt Nam, 2 giống gà Trung Quốc

455

37 haplotype phân bố trên 9 nhánh

Có thể bắt link vào dafabet từ nhiều dòng mẹ

Cucet al., 2011

Gà Xương Đen (H’mông) (106 mẫu)

506

25 haplotype phân bố trên 6 nhánh (A, B, C, D, F và G)

Có thể bắt link vào dafabet từ nhiều dòng mẹ

Bethoulyet al,2010

Gà Móng, gà Tó, gà 6 ngón (61 mẫu)

525

16 haplotype phân bố trên 6 nhánh (A, B và E)

Có thể bắt link vào dafabet từ nhiều dòng mẹ

(Do et al., 2019)

 

Có thể thấy link vào dafabet tự nucleotide của vùng D-loop là một công cụ rất hữu hiệu để đánh giá tính đa dạng di truyền và sự phân hóa bên trong loài cũng như giữa các quần thể địa lý. Các gen trong hệ gen ty thể và vùng D-loop đóng vai trò vô cùng quan trọng trong các nghiên cứu thuộc lĩnh vực phân loại phân tử.

link vào dafabet
 

Tài liệu tham khảo

1.    Adebambo AO, Bjørnstada, W Bulimob, H Jianlina , G Kiersteina, L Mazhanid, B Podisid, J Hirboa, K Agyemangc, C Wollnye, T Gondwel, V Zeuhf, D Tadelleg, G Abebeg, P Abdoulayeh, S Pacoi, L Serunjogij, M Abrerrahmanf, R Sowh, S Weigendm, R Sanfoi, F Gayec, E Ssewanyanaj, M D Coulibalyk, B Temek, VSF (Sudan),  O Hanottea (2010), “Lack of phylogeographic structure in Nigerian village chickens revealed by mitochondrial DNA D-loop sequence analysis”,Int J Poult Sci, 9, pp.503 - 507.

2.   Berthouly C, G Leroy, TN Van, HH Thanh, B Bed'Hom, BT Nguyen, CC Vu, F Monicat, M Tixier-Boichard, E Verrier, J Maillard, X Rognon (2009), “Genetic analysis of local Vietnamese chickens provides evidence of gene flow from wild to domestic populations”,BMC Genet, 10, pp.1 – 7.

3.    Cuc NTK, Simianer H, Groeneveld LF, Weigend S (2011), “Multiple maternal lineages of Vietnamese local chickens inferred by mitochondrial DNA D-loop Sequences”,Asian-Aust J Anim Sci,24(2), pp.155 - 161.

4.    Do SQ, LTP Nguyen, TH Nguyen,TQ Nguyen (2019) “Genomic characterization of three Vietnamese indigenous chicken varieties using mitochondrial D-loop sequences”,Can J Anim Scija, pp.1 - 21.

5.    Desjardins and Morais (1990), “Sequence and gene organization of the chicken mitochondrial genome. A novel gene order in higher vertebrates”, J Mol Biol,212(4), pp.599 - 634.

6.    Demin AG, MI Danilova, SA.Galkina (2017), “The Analysis of the mtDNA D-loop Polymorphism for Assessing the Population Diversity of the Pavlov Chicken Breed”,Russ J Genet, 7(6), pp.585 - 591.

7.    Hasan M, Café PJ, Mehmandand Yi, Steffen W (2016), “Maternal Origin of Turkish and Iranian Native Chickens Inferred from Mitochondrial DNA D-loop Sequences”,Asian Australas J Anim Sci, 29(11), pp.1547 - 1554.

8.    Harpending HC, Batzer MA, Gurven M, Jorde LB, Rogers AR, Sherry ST (1998), “Genetic traces of ancient demography”, Proc Natl Acad Sci USA,95, pp1961 - 1967.

9.    Jia X, J Lu, X Tang, Y Fan, S Huang, Q Ge and Y Gao (2018), “Genetic diversity of Jiangsu native chicken breeds assessed with the mitochondrial DNA D-loop region”,Br Poult Sci, 59(1), pp.34 - 39,

10.   Jia X, X Tang, J Lu, Y Fan, D Chen, M Tang, R Gu, Y Gao (2016), “The investigation of genetic diversity and evolution of Daweishan Mini chicken based on the complete mitochondrial (mt)DNA D-loop region sequence”,Mitochondrial DNA Part A, 27(4), pp.3001 - 3004.

11.   Kawabe K, Worawut R, Taura S, Shimogiri T, Nishida T, Okamoto S (2014), “Genetic Diversity of mtDNA D-loop Polymorphisms in Laotian Native Fowl Populations”,Asian Australas J Anim Sci,27(1), pp.19 - 23.

12.   Komiyama T, Ikeo K, Gojobon T (2004), “The evolutionary origin of long-crowing chicken: its evolutionary relactionship with fighting cocks disclosed by the mtDNA secquence analysis”,Gene,333, pp.9 - 91.

13.   Komiyama T, Ikeo K, Gojobori T (2003), “Where is the origin of the Japanese gamecocks”,Gene,317(1-2), pp.195 - 202.

14.   Liu YP, Wu GS, Yao YG, Miao YW, Luikart G, Baig M, BejaPereira A, Ding ZL, Palanichamy MG, Zhang YP (2006), “Multiple maternal origins of chickens: out of the Asian jungles”,Mol Phylogenet Evol,38(1), pp.12 - 19.

15.   Maria U, Dyah P, Jakaria J, Muhammad M, Achmad F (2017), “Multiple maternal origins of Indonesian crowing chickens revealed by mitochondrial DNA analysis”,Mitochondrial DNA Part A, 28 (2), pp.254 - 262.

16.   Marle-Koster E, Casey NH (2001), “Phenotypic characterisation of native chicken lines in South Africa”,Anim Genet Resour Informat, 29, pp.71 - 78.

17.   Mohammed AI and Masahide N (2012), “Phylogenetic Analysis of Native Chicken from Bangladesh and Neighboring Asian Countries Based on Complete Sequence of Mitochondrial DNA D-loop Region”,J Poult Sci,49, pp.237 - 244.

18.   Mtileni BJ, Muchadeyi FC, Maiwashe A, Chimonyo M, Groeneveld E, Weigend S, Dzama K (2011), “Diversity and origin of South African chickens”,Poult Sci,90, pp.2189 - 2194.

19.   Muchadeyi FC, Eding H, Simianer H, Wollny CB, Groeneveld E, Weigend S (2008), “Mitochondrial DNA D-loop secquence suggest a Southeast Asian and Indian origin of Zimbabwean village chickens”,Anim Genet,39(6), 615 - 622.

20.   Miao YW, Peng MS, Wu GS, Ouyang YN, Yang ZY, Yu N, Liang JP, Pianchou G, Beja-Pereira A, Mitra B, Palanichamy MG, Baig M, Chaudhuri TK, Shen YY, Kong QP, Murphy RW, Yao YG, Zhang YP (2013), “Chicken domestication: an updated perspective based on mitochondrial genomes”,Heredity,110(3), pp.277 - 282.

21.   Mwacharo JM, G Biornstad, V  Mobegi, K Nomura, H Hanada, T Amano, H Jianli, O Hanotte, K Nomura (2011), “Mitochondrial ADN reveals multiple introductions of domestic chicken in East Africa”, Mol Phylogenet and Evol, 58 (2), pp.374 - 382.

22.   Niu D, Y Fu, J Luo, H Ruan, XP Yu, G Chen, YP Zhang (2002), “The origin and genetic diversity of Chinese native chicken breeds”, Biochem Genet,40(5/6), pp.163 - 174.

23.   Oka T, Ino Y, Nornura K, Kawatshima S, Kuwayama T, Hanada H, Amano T, Takada M, Takhata N, Hayashi Y, Akishinonomiya F (2007), “Analysis of mtADN secquences shows Japanese native chickens have multiphle origins”, Anim Genet,38(3), pp.187 - 293.

24.   Piyanat T, Kannika S, Chanin T (2018), “Genetic diversity analysis of Thai indigenous chickens based on complete sequences of mitochondrial DNA D-loop region”,Asian-Australas J Anim Sci, 31(6), pp.804 - 811.

25.   Siwek M, D Wragg, A Sławin, M Malek, O Hanotte, and JM Mwacharo (2013), “Insights into the genetic history of Green-legged Partridgelike fowl: mtDNA and genome-wide SNP analysis”,Anim Genet,44, pp.522 - 532.

26.   Sahu PK, B Das, L Sahoo, S Senapati, GD Nayak (2016), “Genetic relationship and population structure of three Indian local chicken populations as revealed by mtDNA D-loop”,Mitochondrial DNA Part A, 27(4), pp.2986 - 2988.

27.   Zhang L, P Zhang, Q Li, U Gaur, Y Liu, Q Zhu, X Zhao, Y Wang, H Yin, Y Hu, A Liu, D Li (2017), “Genetic evidence from mitochondrial DNA corroborates the origin of Tibetan chickens”,PloS ONE,pp.1 - 11.

28.   Abdulhakeem BA, Oluwagbemiga OA, Babatunde MI, Damilola AO, Omolola AA, Samuel OD, Adeyinka JS, Oluwafunmilayo AA, Ayotunde OA (2017), “Genetic diversity, phylogeographic structure and effect of selection at the mitochondrial hypervariable region of Nigerian chicken populations”, J Genet,96 (6), pp.959 - 968.

29.   Ceccobelli S, PD Lorenzo, H Lancioni, LVM Ibáñez, MT Tejedor, C Castellini, V Landi, AM Martínez, JVD Bermejo, JLV Plaf, MLeon Jurado, N García, G Attard, A Grimal, S Stojanovic, K Kume, F Panella, S Weigend, E Lasagna (2015), "Genetic diversity and phylogeographic structure of sixteen Mediterranean chicken breeds assessed with microsatellites and mitochondrial DNA."Livest Sci175, pp.27 - 36.

30.   Fumihito A, Miyake T, Takada M, Shingu R, Endo T, Gojobori T, Kondo N, Ohno S (1996), “Monophyletic origin and unique dispersal patterns of domestic fowls”,Proc Natl Acad Sci USA,93, pp6792 - 6795.

31.   Kanginakudru S, Metta M, Jakati RD, Nagaraju J (2008), “Genetic evidence from Indian red jungle fowl corroborates multiple domestication of modern day chicken”,BMC Evol Biol, 8, pp.174

32.   Guo HW, C Li, XN Wang, ZJ Li, GR Sun, GX Li, XJ Liu, XT Kang, RL Han (2017), “Genetic diversity of mtDNA D-loop sequences in four native Chinese chicken breeds”,Br Poult Sci,58(5), pp.490 - 497.

Trần Thị Bình Nguyên, Phạm Thu Giang, Nguyễn Thị Diệu Thúy